Bệnh lý còn ống phúc tinh mạc rất phổ biến ở trẻ nhỏ, cứ 100 trẻ sinh đủ tháng thì có 3-5 trẻ mắc bệnh, tỉ lệ này tăng lên gấp 3 lần ở trẻ sinh non.
TS. BS Nguyễn Hoài Bắc – Trưởng khoa Nam học và Y học Giới tính, BV Đại học Y Hà Nội cho biết, bệnh lý còn ống phúc tinh mạc (OPTM) là bệnh lý bẩm sinh xảy ra do OPTM (ống bẹn) ở trẻ nam (hay ống nuck ở trẻ nữ) không xơ hóa hoặc xơ hóa không hoàn toàn, dẫn tới OPTM còn lại phát triển thành một trong số bệnh lý như: Thoát vị bẹn, tràn dịch màng t.inh h.oàn, nang nước thừng tinh.
Bệnh lý còn OPTM rất phổ biến ở trẻ nhỏ, cứ 100 trẻ sinh đủ tháng thì có 3-5 trẻ mắc bệnh, tỉ lệ này tăng lên gấp 3 lần ở trẻ sinh non, đặc biệt trẻ sinh non dưới 30 tuần, thiếu cân
Ở trẻ nam tỉ lệ mắc bệnh cao gấp 6 lần so với trẻ nữ. Trong các thể bệnh còn OPTM thì thoát vị bẹn chiếm 80,2%, tràn dịch màng t.inh h.oàn 13,3% và nang nước thừng tinh chiếm 4,94%.
Bệnh dễ phát hiện
Bệnh thường dễ phát hiện nhưng nếu cha mẹ không chú ý thường dễ bỏ qua. Bệnh có các biểu hiện khi quan sát vùng bìu, bẹn của trẻ thấy có khối bất thường và mất cân xứng. Khối phồng thay đổi kích thước, lúc to, lúc nhỏ theo tư thế, khi trẻ đi, đứng, chạy nhảy nhiều hoặc trẻ ho, rặn thì khối to lên, khi trẻ nằm thì khối sẽ biến mất. Bìu 1 bên căng to, mất nếp nhăn so với bên đối diện.
Sờ nắn có thể thấy khối mềm, bóp xẹp trong trường hợp tràn dịch màng t.inh h.oàn. Sờ khối mềm, tiếng lọc xọc, ấn đẩy khối về phía bẹn thấy khối xẹp trong trường hợp thoát vị bẹn. Hoặc sờ thấy khối căng, bề mặt nhẵn di động, khối có thể hình tròn hoặc hình giọt nước nằm dọc vùng bẹn nếu là nang nước thừng tinh.
“Trẻ mắc bệnh còn OPTM thường không có những biểu hiện nặng cho tới khi bệnh diễn tiến thành các biến chứng. Khi đó trẻ có thể quấy khóc nhiều, kêu đau vùng bẹn, bụng dữ dội, bỏ ăn, bỏ bú, bụng chướng, có thể kèm theo sốt” – chuyên gia Nam học cho hay.
Các biến chứng có thể xảy ra
Khi trẻ mắc bệnh còn OPTM có thể xảy ra các biến chứng như:
– Thoát vị bẹn nghẹt: Nghẹt hoại tử ruột do ruột hoặc mạc treo ruột không chui về ổ bụng được mà bị kẹt tại vùng cổ ống bẹn.
– Rối loạn tiêu hóa, trẻ chậm lớn, bụng chướng hơi.
– Trẻ bị táo bón, không thể đi đại tiện được.
– Ảnh hưởng tới t.inh h.oàn ở b.é t.rai: xoắn t.inh h.oàn, t.inh h.oàn chậm phát triển, teo tình hoàn.
– Ảnh hưởng đến buồng trứng ở b.é g.ái.
– Vỡ nang thừng tinh, gây xuất huyết, n.hiễm t.rùng
Vì vậy, bác sĩ khuyến cáo khi phát hiện những bất thường vùng bìu bẹn của trẻ các bậc phụ huynh nên đưa con tới gặp các chuyên gia về Nhi khoa, Nam khoa để được thăm khám, phát hiện và điều trị kịp thời, tránh các biến chứng xấu ảnh hưởng tới sự phát triển bình thường của trẻ sau này.
Thoát vị rốn, chủ quan là nguy
Thoát vị rốn xảy ra khi một phần của ruột hoặc mô mỡ chui qua khu vực quanh rốn thông qua một điểm yếu trong thành bụng.
Mặc dù thoát vị rốn thường dễ điều trị, nhưng chúng có thể trở thành một tình trạng nghiêm trọng trong một số trường hợp.
Có nhiều dạng thoát vị khác nhau. Thoát vị rốn thực sự xảy ra khi có một khiếm khuyết ở thành bụng trước tại rốn. Chúng thường gặp ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, và ít gặp hơn ở người lớn. Nguyên nhân của thoát vị rốn là khác nhau giữa các nhóm t.uổi. Đối với trẻ sơ sinh: Khi thai nhi phát triển trong bụng mẹ, một lỗ nhỏ hình thành ở cơ bụng. Vị trí này cho phép dây rốn đi qua.
Đối với người lớn: Nếu tăng áp lực lên thành bụng, mô mỡ hoặc quai ruột có thể xuyên qua vị trí phần cơ bụng yếu. Thường gặp ở những người thường xuyên bị tăng áp lực ổ bụng: ho dai dẳng, làm việc nặng, phụ nữ mang thai nhiều lần…
Các bác sĩ BV Sản nhi Quảng Ninh phâu thuât cho bệnh nhi bị thoát vị rốn.
Coi chưng biến chứng
Thoát vị rốn thường phổ biến ở trẻ nhỏ, nhưng tỷ lệ chính xác không được biết vì nhiều trường hợp không được báo cáo và tự giải quyết mà không cần điều trị.
Chúng đặc biệt phổ biến ở trẻ sinh non. Có tới 75% trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh dưới 1,5 kg bị thoát vị rốn. Trong giai đoạn thai nhi đang phát triển nằm trong bụng mẹ, dây rốn đi qua một lỗ mở ở thành bụng. Vị trí sẽ đóng lại ngay sau khi sinh. Tuy nhiên, các cơ không phải lúc nào cũng bịt kín hoàn toàn, để lại một điểm yếu mà qua đó thoát vị rốn có thể đẩy ra.
Trong hầu hết các trường hợp, thoát vị rốn ở trẻ sơ sinh sẽ tự đóng lại khi được 3 đến 4 t.uổi. Nếu thoát vị vẫn còn tồn tại vào thời điểm đ.ứa t.rẻ 4 t.uổi có thể cần phải phẫu thuật.
Thoát vị rốn cũng có thể phát triển ở người lớn, đặc biệt nếu bị thừa cân, nâng vật nặng hoặc ho dai dẳng. Phụ nữ đã mang thai nhiều lần có nguy cơ mắc bệnh thoát vị rốn cao hơn. Ở người lớn, thoát vị phổ biến hơn ở nữ giới. Trong số các trẻ sơ sinh, nguy cơ là như nhau đối với cả b.é t.rai và b.é g.ái.
Biến chứng của thoát vị rốn rất hiếm gặp ở t.rẻ e.m. Nếu phần thoát vị bị kẹt và không thể chui ngược vào ổ bụng khiến ruột có thể mất nguồn cung cấp m.áu và b.ị h.oại t.ử. Nếu thiếu m.áu nuôi, ruột mắc kẹt có nguy cơ b.ị h.oại t.ử và gây n.hiễm t.rùng đe dọa tính mạng. Thoát vị nghẹt rất hiếm gặp ở người lớn.
Chẩn đoán và điều trị
Bác sĩ sẽ có thể chẩn đoán thoát vị rốn qua khám thực thể nhằm xác định loại thoát vị là gì. Nếu có liên quan đến ruột có thể có nguy cơ tắc nghẽn, biến chứng…
Các kỹ thuật cận lâm sàng như siêu âm bụng, Xquang, CTscan hoặc xét nghiệm m.áu có thể được chỉ định để chẩn đoán xác định
Điều trị không phải lúc nào cũng được áp dụng, vì một số trường hợp thoát vị rốn tự khỏi. Nhưng không phải trường hợp nào cũng khỏi đặc biệt là đối với người lớn.
Trẻ sơ sinh và t.rẻ e.m: Đối với phần lớn trẻ sơ sinh, thoát vị sẽ đóng mà không cần điều trị trước 12 tháng t.uổi. Đôi khi, bác sĩ có thể đẩy khối thoát vị trở lại ổ bụng. Điều quan trọng là chỉ những bác sĩ mới được thực hiện phương pháp này.
Phẫu thuật có thể được áp dụng nếu: Thoát vị còn phát triển sau khi trẻ được 1-2 t.uổi; Khối thoát vị vẫn còn sau 4 t.uổi. Ruột nằm trong túi thoát vị, làm giảm nhu động ruột… Phẫu thuật thường được áp dụng cho người lớn. Điều này có thể ngăn ngừa các biến chứng tiềm ẩn, đặc biệt là nếu thoát vị phát triển hoặc bắt đầu đau.
Để hạn chế tình trạng mắc thoát vị rốn trong thời kỳ mang thai cần thường xuyên khám thai, tư vấn và thực hiện các biện pháp tránh sinh non. Chế độ sinh hoạt phù hợp để hạn chế bệnh bằng cách thực hiện chế độ ăn giảm cân nếu đang bị thừa cân. Không nên làm việc quá nặng nhọc. Nên có chế độ ăn uống hợp lý. Nên có chế độ luyện tập thể dục thể thao tốt và phù hợp với tình trạng sức khỏe của cơ thể.